Các cựu chiến binh tham quan triển lãm văn kiện lịch sử “Tuyên ngôn Độc lập” tại Di tích Nhà số 48 Hàng Ngang, Hà Nội. (Ảnh BQL)
Bản tuyên ngôn không chỉ thể hiện tuyên bố hùng hồn về nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam mà còn là bản tuyên ngôn bất hủ vượt tầm thời đại về nhân quyền và dân quyền cho mọi con người, mọi dân tộc trên toàn thế giới.
80 năm đã trôi qua, song những giá trị lý luận khoa học cách mạng của bản Tuyên ngôn Độc lập, nhất là tư tưởng nhân văn, nhân đạo về nhân quyền vẫn giữ nguyên tính trường tồn.
Những tư tưởng ấy là nền tảng lý luận định hướng, soi đường cho Đảng và Nhà nước ta hoạch định, triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách bảo đảm, bảo vệ quyền con người ở Việt Nam ngày càng tốt hơn. Nhờ đó, nhân dân Việt Nam thật sự được sống trong độc lập, tự do, được hưởng ngày càng đầy đủ các quyền dân chủ, nhân quyền, có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Tuy nhiên, với âm mưu đen tối, các thế lực phản động luôn tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận những giá trị cao đẹp của bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam (bản Tuyên ngôn).
Chúng cho rằng bản Tuyên ngôn chỉ là sự sao chép, copy lại một cách cẩu thả, tùy tiện Tuyên ngôn của Pháp, Mỹ; tư tưởng về quyền con người trong bản Tuyên ngôn chỉ để hô khẩu hiệu, dân túy mà không có giá trị thực tiễn, không đem lại quyền lợi thật sự cho nhân dân.
Không chỉ phủ nhận những giá trị nhân văn vượt tầm thời đại của bản Tuyên ngôn, các thế lực thù địch phản động còn cố tình xuyên tạc, phủ nhận những nỗ lực và thành quả trong việc bảo đảm dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam những năm qua.
Không chỉ phủ nhận những giá trị nhân văn vượt tầm thời đại của bản Tuyên ngôn, các thế lực thù địch phản động còn cố tình xuyên tạc, phủ nhận những nỗ lực và thành quả trong việc bảo đảm dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam những năm qua.
Chúng xuyên tạc rằng, bao năm qua, người dân Việt Nam không được hưởng tự do, dân chủ, bình đẳng, ấm no, hạnh phúc như đã tuyên bố. Chúng còn trắng trợn ngụy tạo các vụ việc vi phạm nhân quyền giả, vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, phân biệt đối xử với đồng bào dân tộc thiểu số…
Các đối tượng lập “hồ sơ nhân quyền” với nội dung bịa đặt, vu khống Việt Nam không có nhân quyền, nhằm tìm cớ đưa các “tổ chức nhân quyền quốc tế” vào can thiệp đến các vấn đề nội bộ của Việt Nam với danh nghĩa “bảo vệ công lý”; đòi đưa Việt Nam vào “danh sách đen” gồm các nước vi phạm nhân quyền cần giám sát đặc biệt và trừng phạt mạnh.
Mỗi khi Việt Nam được tín nhiệm bầu vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc, chúng điên cuồng công kích, tìm cách hạ uy tín, gây sức ép, cản trở… Không khó để nhận ra những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động thực chất chỉ nhằm muốn bôi nhọ, hạ thấp, phủ nhận vai trò, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta.
Mục đích làm cho người dân hoài nghi, mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước, từ đó dễ bề thực hiện mưu đồ chính trị thâm độc, dụ dỗ, mua chuộc người dân quay lưng chống phá Đảng, lật đổ Nhà nước để tìm cơ hội quay lại xâm lược, thôn tính nước ta.
Tuy nhiên, giá trị của bản Tuyên ngôn Độc lập là không thể phủ nhận. Mặc dù được soạn thảo trong thời gian rất ngắn do bối cảnh tình hình cách mạng cấp bách, song với tầm trí tuệ sắc sảo và phương pháp tư duy biện chứng khoa học tiếp thu từ chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nên một bản Tuyên ngôn Độc lập có giá trị lý luận cách mạng sâu sắc.
Người khai thác, kế thừa tư liệu lịch sử một cách cẩn trọng để luận giải lô-gích, có sức thuyết phục. Việc Người chủ định viện dẫn tuyên bố của cả hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp ngay từ câu đầu cho thấy tinh thần nhân văn cao đẹp trong cách tư duy của Người. Rằng, những gì là giá trị văn hóa, văn minh nhân loại thì vẫn đáng trân trọng, kế thừa, học theo.
Mục tiêu chính trị quan trọng của bản Tuyên ngôn thể hiện rõ tinh thần nhân văn quốc tế cao cả, không chỉ mong muốn độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam mà còn cho toàn thể nhân dân cần lao và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Bản Tuyên ngôn Độc lập không chỉ có giá trị lý luận cách mạng sâu sắc mà còn thấm đượm những giá trị nhân văn vượt tầm thời đại về nhân quyền và dân quyền.
Nếu trong Tuyên ngôn của Mỹ hay Pháp khẳng định mọi người sinh ra đều có quyền và phải được tự do, bình đẳng, song trên thực tế, “mọi người” được đề cập ở đây không thật sự là tất cả mọi người mà chỉ là một số người, ít nhất là không bao gồm nô lệ.
Theo thừa nhận của nhiều nhà lãnh đạo, học giả Mỹ, “mọi người” đó chỉ bao gồm đàn ông da trắng. Còn tư tưởng về nhân quyền của Hồ Chí Minh ở tầm cao khác. Người đồng tình rằng mọi người sinh ra có quyền và phải được bình đẳng, tự do, hạnh phúc, nhưng “mọi người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là toàn thể nhân dân, đồng thời bao gồm toàn thể mọi dân tộc, tức là cả nhân loại.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân quyền phải là thật sự và triệt để. Để con người được hưởng tự do, bình đẳng thật sự thì dân tộc phải được độc lập, tự do; muốn giải phóng triệt để con người thì cần giải phóng dân tộc. Vì nếu dân tộc còn bị áp bức, thống trị thì người dân còn bị áp bức, bóc lột, nô dịch, không thể có tự do, bình đẳng hay bất kỳ quyền nào.
Độc lập, tự do của dân tộc luôn phải gắn chặt với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Người nhấn mạnh, độc lập, tự do là rất quý, cho nên nếu cần cũng phải quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.
Thấm nhuần tư tưởng coi trọng, đề cao nhân quyền trong Tuyên ngôn Độc lập, 80 năm qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam không ngừng nỗ lực phát huy, thực hiện ngày càng hiệu quả việc bảo đảm các quyền con người cho mọi tầng lớp nhân dân.
Ngay từ khi nước nhà độc lập, hàng loạt chủ trương, chính sách, pháp luật... nhằm thể chế hóa, cụ thể hóa vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân được ban hành.
Đảng và Nhà nước tích cực chỉ đạo các địa phương, ban, ngành tăng cường phối hợp, triển khai các chương trình hành động để thực hiện hiệu quả quyền con người, đáp ứng mong muốn của các tầng lớp nhân dân. Những năm gần đây, Đảng ta không chỉ quán triệt mà còn nâng tầm, cụ thể hóa hơn các nội dung chỉ đạo thực hiện bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam.
Đó là không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; nâng cao phúc lợi xã hội, an sinh xã hội, bảo đảm những nhu cầu cơ bản, thiết yếu của nhân dân về nhà ở, đi lại, giáo dục, y tế, việc làm; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam; công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội…
Nhờ những nỗ lực không ngừng của Đảng và Nhà nước trong 80 năm qua, Việt Nam đã đạt những thành tựu vượt bậc trong việc bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người trên mọi lĩnh vực, được thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Nhân dân không chỉ có đời sống kinh tế ngày càng ấm no, hạnh phúc mà đời sống chính trị, văn hóa, xã hội cũng ngày càng dân chủ, công bằng, tiến bộ, văn minh.
Người dân Việt Nam ở mọi vùng miền, nhất là vùng dân tộc thiểu số, nhóm người yếu thế, dễ tổn thương đều được quan tâm, chăm lo, thụ hưởng ngày càng đầy đủ các quyền con người, như quyền được sống, được lao động, học tập, chăm sóc sức khỏe, hưởng thụ an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; được tự do ngôn luận, sinh hoạt tôn giáo...
Đảng và Nhà nước Việt Nam quyết tâm không để ai bị phân biệt đối xử, không được hưởng thụ các quyền con người hay bị bỏ lại phía sau trong tiến trình phát triển phồn vinh, hạnh phúc của đất nước… Việc bảo đảm quyền con người đã giúp Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Năm 2024, Việt Nam được UNDP công nhận là nước có chỉ số phát triển con người tăng cao nhanh nhất thế giới; là một trong những quốc gia có chỉ số hạnh phúc cao nhất châu Á; một trong những nước đi đầu trong việc hoàn thành sớm nhiều Mục tiêu thiên niên kỷ, mục tiêu Phát triển bền vững (trong đó có nhiều chỉ tiêu liên quan đến bảo đảm quyền con người).
Những thành tựu nêu trên là minh chứng sống động cho thấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam chưa bao giờ xa rời những chỉ dẫn mà Tuyên ngôn Độc lập đã đề ra. 80 năm trôi qua, song những giá trị nhân văn cao đẹp về quyền con người trong Tuyên ngôn Độc lập vẫn vẹn nguyên giá trị và có sức sống trường tồn cùng dân tộc.