TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐẢNG BỘ TỈNH ĐIỆN BIÊN
  • Trang chủ > Giới thiệu chung
  • Đảng bộ tỉnh Điện Biên
  • Thời gian đăng: 26/11/2018 01:49:17 PM
  • ĐẢNG BỘ TỈNH ĐIỆN BIÊN 70 NĂM CHIẾN ĐẤU, XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH

    (10/10/1949 - 10/10/2019)

    1. Quá trình thành lập đảng bộ

    Sau thất bại nặng nề trong chiến dịch Thu Đông (1947), quân Pháp được tăng viện tiếp tục mở rộng chiếm đóng về phía Sơn La, Yên Bái, Lào Cai. Ở Lai Châu, Sau 2 năm hoạt động (1948-1949) đội xung phong Quyết Tiến đã xây dựng được một loạt cơ sở cách mạng kéo dài từ Quỳnh Nhai sang Tuần Giáo - Điện Biên và một số tỉnh Bắc Lào, nhờ đó phong trào cách mạng ngày càng ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân các dân tộc vùng rẻo cao. Một vấn đề cấp bách đặt ra đối với địa phương lúc này là phải có một tổ chức Đảng cộng sản để làm hạt nhân lãnh đạo, tổ chức quần chúng nhân dân đấu tranh và tiến hành cuộc kháng chiến thắng lợi. Ủy ban kháng chiến hành chính liên tỉnh Sơn - Lai được thành lập chưa đủ điều kiện để thực hiện nhiệm vụ này.

    Ngày 10/10/1949, Ban Cán sự Đảng tỉnh Lai Châu (nay là Đảng bộ tỉnh Điện Biên và Lai Châu) được thành lập, gồm 3 đồng chí: Nguyễn Bá Lạc (bí danh Trần Quốc Mạnh) - Trưởng ban; đồng chí Hoàng Đông Tùng và đồng chí Tạ Nhật Tựu (bí danh Hoàng Hoa Thưởng) - Ủy viên. Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu được Liên khu ủy 10 giao nhiệm vụ: "Gây cơ sở quần chúng tạo nên điều kiện tiến tới lãnh đạo nhân dân Lai Châu võ trang tranh đấu thu phục lại toàn bộ đất đai".

    Ngày 02/12/1949, tại bản Lướt, xã Mường Kim, huyện Than Uyên, tỉnh Yên Bái, Ban cán sự Đảng tỉnh Lai Châu đã triệu tập Hội nghị để thành lập chi bộ gồm 20 đảng viên (18 chính thức, 2 dự bị), Ban cán sự chỉ định 3 đồng chí vào Ban chi ủy: Trần Quốc Mạnh, Hoàng Hoa Thưởng, Nguyễn Hữu Chí. Đồng chí Trần Quốc Mạnh được cử làm bí thư chi bộ.

    Sự kiện Ban cán sự Đảng tỉnh (tiền thân của Đảng bộ tỉnh Điện Biên ngày nay) và chi bộ Lai Châu ra đời khẳng định sự trưởng thành của phong trào cách mạng của tỉnh. Từ đây phong trào đấu tranh của nhân dân địa phương đã có tổ chức Đảng trực tiếp lãnh đạo, đánh dấu bước ngoặt trong đời sống chính trị của đồng bào các dân tộc Lai Châu - Điện Biên.

    2. Các kỳ Đại hội của Đảng bộ tỉnh Điện Biên

    Từ khi tái thành lập tỉnh (1963) đến nay (2018), Đảng bộ tỉnh Điện Biên đã tiến hành 13 kỳ Đại hội như sau:

    Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I được tiến hành từ ngày 15 đến 21/10/1963. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa I gồm 22 đồng chí, Ban Thường vụ 7 đồng chí. Đồng chí Trần Quốc Mạnh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, các đồng chí Nguyễn Văn Xã, Quyết Tâm làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

    Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ II được tiến hành từ ngày 28/3 đến ngày 05/4/1970. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa II gồm 23 đồng chí, Ban Thường vụ 7 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Xã được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, các đồng chí Quyết Tâm, Lâm Sung được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

    Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III được tiến hành từ ngày 26/4 đến ngày 01/5/1975. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa III gồm 28 đồng chí, Ban Thường vụ 7 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Xã được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy, các đồng chí Quyết Tâm, Hoàng Tinh được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

    Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IV được tiến hành từ ngày 07 đến ngày 12/3/1977. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa IV gồm 35 đồng chí, Ban Thường vụ 11 đồng chí. Đồng chí Hoàng Tinh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, các đồng chí Lê Ninh, Nguyễn Niệm được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

    Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ V được tiến hành từ ngày 27 đến ngày 29/10/1980. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa V gồm 39 đồng chí, Ban Thường vụ 13 đồng chí. Đồng chí Hoàng Tinh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, các đồng chí Nguyễn Niệm, Giàng A Páo được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

    Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VI được tiến hành từ ngày 20 đến ngày 24/01/1983. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa V gồm 41 đồng chí, Ban Thường vụ 12 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Niệm được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, các đồng chí Giàng A Páo, Lương Quy Nhân được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

    Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VII được tiến hành từ ngày 08 đến ngày 14/10/1986. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa VII gồm 49 đồng chí, Ban Thường vụ 12 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Niệm được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, các đồng chí Giàng A Páo, Lò Văn Inh được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

    Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII được tiến hành từ ngày 23 đến ngày 27/9/1991. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa VIII gồm 45 đồng chí, Ban Thường vụ 13 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Niệm được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, các đồng chí Lò Văn Inh, Nguyễn Văn Chải, Lò Văn Puốn được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

    Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX được tiến hành từ ngày 03 đến ngày 06/5/1996. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa IX gồm 47 đồng chí, Ban Thường vụ 13 đồng chí. Đồng chí Lò Văn Puốn được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, các đồng chí Sùng A Vang, Trịnh Long Biên được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

    Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X được tiến hành từ ngày 02 đến ngày 05/01/2000. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa X gồm 47 đồng chí, Ban Thường vụ 13 đồng chí. Đồng chí Trịnh Long Biên được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Phạm Ngọc Thiểm được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

    Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI được tiến hành từ ngày 19 đến ngày 21/12/2005. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI gồm 47 đồng chí, Ban Thường vụ 13 đồng chí. Đồng chí Trịnh Long Biên được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, các đồng chí Nguyễn Thanh Tùng, Lò Mai Trinh được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

    Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XII được tiến hành từ ngày 26 đến ngày 29/10/2010. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XII gồm 49 đồng chí, Ban Thường vụ 14 đồng chí. Đồng chí Lò Mai Trinh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, các đồng chí Nguyễn Thanh Tùng, Mùa A Sơn được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

    Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII được tiến hành từ ngày 13 đến ngày 15/10/2015. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII gồm 52 đồng chí, Ban Thường vụ 16 đồng chí. Đồng chí Trần Văn Sơn được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, các đồng chí Mùa A Sơn, Lâm Văn Năm, Lò Văn Muôn được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

    3. Đảng bộ tỉnh Điện Biên - 70 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành

    70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân các dân tộc Điện Biên luôn phát huy truyền thống Điện Biên Phủ anh hùng, chuyên cần trong lao động sản xuất, dũng cảm trong chiến đấu, vượt qua khó khăn, thử thách và giành được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Đảng bộ Điện Biên đã đi một chặng đường dài 70 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành được thể hiện qua các giai đoạn cách mạng quan trọng sau:

    * Giai đoạn 1949-1954: Đảng bộ lãnh đạo nhân dân các dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giải phóng Lai Châu.

    Tháng 01/1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Tây Bắc (lấy tên chiến dịch Lê Hồng Phong I). Ở Lai Châu ta đã tổ chức một số trận đánh, do chưa tổ chức tốt việc phối hợp giữa bộ đội và dân quân du kích dẫn đến thất bại. Trước tình hình đó, Ban cán sự Đảng Lai Châu đã chỉ đạo các tổ, đội công tác động viên nhân dân xây dựng lại căn cứ cách mạng đồng thời chỉ đạo và xây dựng các đoàn thể quần chúng như: Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc...

    Chiến dịch Tây Bắc (tháng 10/1952) kết thúc thắng lợi, Ban cán sự Đảng Lai Châu lãnh đạo nhân dân vùng giải phóng khẩn trương khai hoang phục hóa, phát triển sản xuất, ổn định đời sống, đồng thời tích cực xây dựng các đoàn thể quần chúng, tăng cường công tác xây dựng Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang, bán vũ trang để chuẩn bị cho việc giải phóng Lai Châu.

    Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đang trên đà thắng lợi. Thực dân Pháp cho quân nhảy dù chiếm lại Điện Biên Phủ (20/11/1953) và xây dựng tại đây một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương. Theo quyết định của Bộ Chính trị và kế hoạch “Chuẩn bị chiến trường” của Bộ Tư lệnh Quân khu Tây Bắc, Ban cán sự Đảng Lai Châu đã cử đoàn công tác xuống các địa phương, vận động nhân dân chuẩn bị về mặt tinh thần, ý chí cũng như lương thực, thực phẩm để đón bộ đội chủ lực vào giải phóng Lai Châu. Nhờ làm tốt công tác chuẩn bị nên khi ta mở chiến dịch và giải phóng Điện Biên, Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã có những đóng góp to lớn cho thắng lợi chung của cả dân tộc.

    Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Ban cán sự Đảng Lai Châu lại tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo các địa phương phối hợp với lực lượng vũ trang diệt phỉ trừ gian. Sau 4 tháng tiêu diệt tàn phỉ, Lai Châu đã hoàn toàn giải phóng. Ngoài việc tiễu phỉ, Ban cán sự Đảng Lai Châu còn chú trọng đến việc lãnh đạo nhân dân tăng gia sản xuất, khắc phục nạn đói giáp hạt và củng cố Đảng, chính quyền, các đoàn thể và lực lượng vũ trang trong tỉnh.

    Sau 05 năm kể từ ngày thành lập, Ban cán sự Đảng Lai Châu ngày càng trưởng thành và lớn mạnh. Từ 18 đảng viên ban đầu, đến tháng 12/1954 đã có 212 đảng viên.

    * Giai đoạn 1955-1965: Đảng bộ lãnh đạo sự nghiệp khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.

    Khôi phục kinh tế: Tập trung vào phát triển nông nghiệp nhất là sản xuất lương thực; đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, xây dựng và phát triển cơ sở vật chất cho nông nghiệp. Năm 1963 toàn tỉnh có 645 hợp tác xã, với 13.466 hộ, chiếm 59,9% số hộ toàn tỉnh. Trong đó vùng thấp 457 hợp tác xã, vùng cao 188 hợp tác xã. Công tác y tế, văn hóa, giáo dục cũng được quan tâm như xóa mù chữ, mở trường học cho con em nhân dân các dân tộc. Năm học 1963-1964 tổng số học sinh phổ thông toàn tỉnh là 6.182 em.

    Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể được gắn chặt với phong trào phát triển sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa.

    * Giai đoạn 1966-1975: Đảng bộ lãnh đạo nhân dân vừa sản xuất, vừa chiến đấu, chi viện cho cách mạng miền Nam, thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào.

    Về phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội đạt được những thành tựu to lớn: Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được thiết lập, củng cố, kiên trì xây dựng hợp tác xã ở vùng thấp, phát triển nông trường quốc doanh... Tổng sản lượng lương thực năm 1975 đạt 102.860 tấn, có 13 xí nghiệp quốc doanh, giá trị sản lượng công nghiệp tăng 88,1%; giao thông vận tải phát triển nhanh năm 1973 tăng gấp 4 lần so với trước chiến tranh; các huyện: Điện Biên, Tuần Giáo, Phong Thổ đã có trường cấp III. Năm học 1974-1975 số học sinh phổ thông là 25.207 em. Hầu hết các xã có trạm y tế; văn hóa báo chí được phát triển phục vụ nhiệm vụ chính trị của tỉnh, đời sống nhân dân được cải thiện.

    Nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã làm tròn nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam chiến đấu chống Mỹ và tay sai, giúp đỡ cho cách mạng Lào, sẵn sàng chiến đấu, huy động con em lên đường chiến đấu, là hậu phương cho nước bạn Lào chiến đấu chống lại chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, chống lại các hoạt động gián điệp, biệt kích, các lực lượng phản động, giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh.

    * Giai đoạn 1976-1985: Đảng bộ và nhân dân Lai Châu cùng cả nước đi lên CNXH thu được nhiều thắng lợi.

    Về phát triển kinh tế: Tổng sản lượng lương thực năm 1985 đạt 138.712 tấn (tăng 61,15% so với năm 1975); công nghiệp năm 1985 đạt 9.990 triệu đồng (tăng 44%), đã có một số cơ sở sản xuất mặt hàng mới như: sành, sứ, gạch men...

    Văn hóa - xã hội: Được đẩy mạnh, phong trào học phổ thông, bổ túc văn hóa, nông nghiệp, kỹ thuật có bước chuyển biến khá. Năm 1985 có 49.745 học sinh (tăng gấp 2 lần so với năm 1975) số học sinh là người dân tộc ít người hằng năm đều tăng, chất lượng học tập được nâng lên. Công tác y tế được đảm bảo, số y, bác sỹ ngày một tăng. Năm 1985 có 76 bác sĩ, 496 y sĩ, và 1.493 giường bệnh; hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin đại chúng có bước phát triển, đã tạo được phong trào văn hóa văn nghệ ở các trường học, khu vực thị xã, thị trấn, nông thôn vùng thấp.

    Đảng bộ và nhân dân đã huy động sức người sức của, chiến đấu anh dũng bảo vệ vững chắc biên giới Tổ quốc, đồng thời tiếp tục củng cố quốc phòng, xây dựng, bảo vệ tuyến biên giới vững chắc.

    * Giai đoạn 1986 - 2003: Đảng bộ lãnh đạo tiến hành công cuộc đổi mới vì mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

    Về kinh tế: Sản lượng lương thực năm 1986 đạt 136.645 tấn đến năm 2000 là 190.000 tấn. Lai Châu đã tự giải quyết được vấn đề lương thực. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1986 là 7.596 triệu đồng, đến năm 2000 đạt 165 tỷ đồng.

    Về văn hóa - xã hội: Trong giáo dục: đã duy trì được hệ thống trường lớp nhất là ở vùng thấp, thị xã, thị trấn. Đội ngũ giáo viên được đào tạo, bổ sung nâng cao chất lượng. Số học sinh các cấp luôn tăng. Năm 1986 có 52.373 học sinh. Năm học 1999-2000 tăng lên với 130.895 học sinh. Cơ sở vật chất và chính sách về sự nghiệp giáo dục được quan tâm. Trong lĩnh vực Y tế đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất mới cho 3 bệnh viện tuyến tỉnh, 10 trung tâm y tế huyện, thị với 1.000 giường bệnh, 100% xã, phường có trạm y tế, 22 phòng khám khu vực; toàn tỉnh có 1.200 bản có cán bộ y tế. Sự nghiệp văn hóa thông tin được duy trì và phát triển, tăng thêm nhiều cơ sở vật chất như: Nhà văn hóa, bãi chiếu phim...

    Công tác An ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội đã được thực hiện tốt. Công tác quân sự đã luôn đảm bảo sự lãnh đạo chặt chẽ của cấp uỷ Đảng, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp. Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ gìn trật tự an toàn xã hội có tiến bộ, việc đấu tranh chống tội phạm được thực hiện tích cực, với sự tham gia, phối hợp của nhiều lực lượng và quần chúng nhân dân.

    Công tác xây dựng Đảng: Tập trung vào nhiệm vụ xây dựng Đảng bộ vững mạnh trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đảng bộ tỉnh ngày một lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng.

    * Giai đoạn 2004 đến nay: Những kết quả Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lai Châu (cũ) đạt được đã tạo cho tỉnh Điện Biên thế và lực mới, cùng cả nước vững bước trong sự nghiệp đổi mới của Đảng ở thế kỷ XXI.

    Trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhiều năm liền Điện Biên duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khá. Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2004- 2018 đạt 8,72%/năm; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng xác định, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng nông lâm nghiệp, năm 2018: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 20,33%, công nghiệp - xây dựng chiếm 21,95%, dịch vụ chiếm 52,65%. GRDP bình quân đầu người năm 2018 đạt 26,7 triệu đồng/năm, tăng 1,3 lần so với năm 2015. Thu ngân sách trên địa bàn năm 2018 đạt trên 1.178,52 tỷ đồng, tăng hơn 8,1 lần so với năm 2004.

    Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh tiếp tục được quan tâm đầu tư, làm thay đổi diện mạo đô thị và nhiều vùng nông thôn. An sinh xã hội được đảm bảo; tỷ lệ giảm hộ nghèo bình quân giai đoạn 2016 - 2018 đạt 3,69%/năm (từ 48,14% cuối năm 2015 xuống 37,08% cuối năm 2018), đời sống của nhân dân các dân tộc từng bước được cải thiện. Hệ thống giáo dục, y tế phát triển rộng khắp tới các thôn, bản, đảm bảo các điều kiện để người dân được học tập, chăm sóc sức khỏe toàn diện. Các thiết chế văn hóa - xã hội cơ sở tiếp tục được đầu tư, xây dựng, nâng cấp đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu đời sống và sinh hoạt của nhân dân. Đến nay, có 120/130 xã, phường, thị trấn có đường ô tô đến trung tâm xã đi lại được bốn mùa; 130/130 xã, phường thị trấn có điện và trên 88,24% số hộ dân được sử dụng điện.

    Quốc phòng - an ninh được đảm bảo, thực hiện tốt chiến lược quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân; giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia; mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước láng giềng và tổ chức quốc tế. Khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định... đã tạo môi trường thuận lợi để Điện Biên phát triển kinh tế - xã hội.

    Hệ thống chính trị từ tỉnh tới cơ sở được tỉnh Điện Biên tập trung xây dựng, củng cố, phát triển rộng khắp, chú trọng địa bàn khó khăn, vùng sâu, biên giới. Qua 70 năm xây dựng và trưởng thành, với 13 kỳ đại hội, Đảng bộ tỉnh ngày càng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Khi mới thành lập Ban cán sự Đảng, với 20 đảng viên (tháng 10/1949), đến nay, Đảng bộ tỉnh có 14 đảng bộ trực thuộc, trên 39 nghìn đảng viên, với 628 tổ chức cơ sở Đảng. Các tổ chức đảng và đảng viên đã và đang phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị tại cơ sở; thường xuyên rèn luyện, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, bản lĩnh và năng lực thực hiện nhiệm vụ.

    Với những kết quả đạt được trong 70 năm qua, Đảng bộ, quân và nhân dân các dân tộc Điện Biên đã vinh dự, tự hào được Đảng, Nhà nước trao tặng những phần thưởng và các danh hiệu cao quý như: Huân chương Sao vàng, Huân chương Độc lập hạng nhất và hạng nhì, Huân chương Hồ Chí Minh; nhiều Huân chương lao động các loại. Nhân dân và các Lực lượng vũ trang tỉnh Điện Biên đã được Đảng, Nhà nước tuyên dương Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang; tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lao động; hàng trăm tập thể, hàng ngàn cá nhân được Đảng, Chính phủ tặng thưởng huân, huy chương các loại.

  • BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH
    Liên kết web
  • Thống kê truy cập
    Tổng truy cập: