Trước hết phải khẳng định, giai đoạn 2021-2025 đánh dấu sự chuyển mình mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và chuyển đổi số tại Điện Biên. Hệ thống cơ chế, chính sách về quản lý và phát triển khoa học công nghệ được hoàn thiện hơn, nhiều văn bản quy định, hướng dẫn đã được ban hành, tạo nền tảng pháp lý quan trọng để các cơ quan, đơn vị thực thi. UBND tỉnh quản lý 50 nhiệm vụ khoa học, công nghệ, tập trung vào các lĩnh vực phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp, y tế, giáo dục và quản lý nhà nước. Trong số đó, nhiều đề tài, dự án được đánh giá có tính ứng dụng cao như: Nghiên cứu phát triển giống lúa phù hợp điều kiện thổ nhưỡng Điện Biên; ứng dụng công nghệ sinh học trong chăn nuôi; giải pháp công nghệ bảo tồn dược liệu bản địa... Đây là những kết quả mang ý nghĩa "kép" vừa nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, vừa góp phần gìn giữ bản sắc, tri thức bản địa.
Trong lĩnh vực chuyển đổi số, tỉnh đã hình thành nền tảng hạ tầng số cơ bản, 100% cơ quan Nhà nước từ tỉnh đến xã sử dụng phần mềm quản lý văn bản, kết nối Trục liên thông văn bản quốc gia; trên 90% cán bộ sử dụng thư điện từ công vụ thường xuyên. Vận hành hệ thống hội nghị truyền hình, thông tin báo cáo kết nối Văn phòng Chính phủ; triển khai họp không giấy tại HĐND, UBND cấp tỉnh, huyện. Trung tâm điều hành thông minh (IOC) vận hành từ năm 2024, tích hợp dữ liệu các ngành, hệ thống camera giám sát giao thông, an ninh. 100% TTHC đủ điều kiện được cung cấp trực tuyến toàn trình, tích hợp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia; tỷ lệ hồ sơ trực tuyến đạt trên 75%, thanh toán trực tuyến đạt 86,73%. Tỉnh cũng chủ động, tích cực phối hợp các bộ, ngành xây dựng, cập nhật và khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu ngành; xây dựng Cổng dữ liệu mở, cơ sở dữ liệu dùng chung phục vụ điều hành, cung cấp dịch vụ số.
Cán bộ, công chức cấp xã thuận lợi trong xử lý các thủ tục hành chính nhờ đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ.
Trong lĩnh vực kinh tế số, xã hội số, tỉnh đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong thúc đẩy phát triển kinh tế số và xây dựng xã hội số. Tỷ trọng giá trị gia tăng của kinh tế số trong GRDP tăng từ 9,5% năm 2023 lên 11,5% năm 2024, vượt mục tiêu đề ra. Đến năm 2025, 94,4% hộ gia đình đã được thông báo địa chỉ số; 75% người dân trưởng thành sử dụng điện thoại thông minh; trên 70% dân số tiếp cận bình đẳng các dịch vụ thiết yếu như: Chính quyền sos, y tế, giáo dục, thương mại điện tử, tài nguyên môi trường... Công tác định danh điện tử được triển khai hiệu quả, với 97,35% công dân được kích hoạt tài khoản định danh vào năm 2024; 100% đối tượng an sinh xã hội được cấp tài khoản cá nhân để nhận hỗ trợ; toàn bộ cơ sở giáo dục thu học phí, các khoản thu qua tài khoản điện tử. Tỉnh đã hoàn thành chuyển đổi mô hình quản trị số tại 100% cơ sở giáo dục và đào tạo (từ tiểu học đến đại học), đồng bộ hóa hoạt động số, chuẩn hóa dữ liệu, xây dựng kho học liệu số mở, góp phần đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện trong giáo dục. Trong lĩnh vực y tế, 140/140 cơ sở khám, chữa bệnh triển khai khám bảo hiểm y tế bằng Căn cước công dân, với 1.529.709 lượt thành công và 18.670 lượt bằng mã định danh cá nhân. Các đơn vị y tế đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt qua QR code, website, Mobile Money, thẻ POS... Lũy tích đến nay, có 36.436 lượt thanh toán với tổng số tiền 34,58 tỷ đồng...
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm sáng ấy, bức tranh 5 năm vẫn còn không ít khoảng trống. Trước nhất là công tác quy hoạch, đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin tại địa phương chưa được triển khai đồng bộ; việc lồng ghép các nguồn vốn từ các chương trình, dự án hỗ trợ đầu tư hạ tâng cho vùng sâu, vùng xa chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt, nguồn nhân lực công nghệ thông tin tại cơ sở còn rất thiếu và yếu. Đặc biệt sau khi sáp nhập 45 xã, hầu hết các xã hiện nay gần như không còn cán bộ chuyên trách về công nghệ thông tin, gây khó khăn lớn trong việc triển khai các nhiệm vụ chuyển đổi số ở cấp cơ sở, nhất là trong duy trì vận hành các nền tảng số và hỗ trợ người dân tiếp cận dịch vụ công trực tuyến. Bên cạnh đó nguồn lực tài chính hạn chế trong khi việc huy động nguồn lực xã hội hóa, nguồn lực từ doanh nghiệp, tổ chức quốc tế còn yếu; một số cơ quan, đơn vị chưa chủ động trong việc xây dựng, đề xuất các nhiệm vụ khoa học - công nghệ có tính thực tiễn, khả thi cao...
Yêu cầu cấp thiết để bước vào giai đoạn mới
Nhìn lại 5 năm qua, có thể nói Điện Biên đã xây dựng được nền móng quan trọng cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Nhưng nền móng ấy mới chỉ là khởi đầu. Để bứt phá, tỉnh cần khắc phục ngay những điểm nghẽn còn tồn tại. Trong đó cần tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, bảo đảm nguồn lực tài chính ổn định, bền vững. Ngân sách nhà nước vẫn là trụ cột, nhưng phải đi đôi với đẩy mạnh xã hội hóa, thu hút nguồn lực từ doanh nghiệp, hợp tác quốc tế. Bên cạnh đó cần quan tâm phát triển hạ tầng số hiện đại, đồng bộ, xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao, cần có cơ chế đãi ngộ phù hợp để thu hút chuyên gia công nghệ, nhà khoa học về làm việc tại tỉnh. Đổi mới công tác quản trị và truyền thông, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ; gắn trách nhiệm người đứng đầu; đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận xã hội. Tăng cường giám sát, đánh giá hiệu quả, mọi nhiệm vụ khoa học, công nghệ, chuyển đổi số phải gắn với mục tiêu cụ thể, sản phẩm đầu ra rõ ràng, đo lường được tác động thực tiễn.
Những kết quả Điện Biên đạt được trong thời gian qua đã chứng minh rằng dù xuất phát điểm thấp, vẫn có thể tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ nếu có quyết tâm chính trị cao, sự đồng bộ trong lãnh đạo, chỉ đạo và hành động. Với Điện Biên, "nền móng" đã có, nhưng để bứt phá tỉnh cần tiếp tục xây dựng những tầng cao mới bằng tư duy đổi mới, hành động quyết liệt, nguồn lực bền vững và lòng tin của nhân dân. Có như vậy, khoa học, công nghệ và chuyển đổi số mới thực sự trở thành động lực để phát triển theo hướng xanh, thông minh, bền vững trong giai đoạn tới.
Bài, ảnh: Minh Thùy